1. Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu
để đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
- Khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân được giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo theo một đường lối
đúng đắn, Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước
hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài
thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững
cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới
chạy”. 1
- Tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam trên cơ sở phân tích đúng đắn tình hình kinh
tế - xã hội và giai cấp ở Việt Nam, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân
tộc và giai cấp trong Cách mạng Việt Nam, tổ chức ra Đảng cộng sản Việt Nam.
- Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng cộng sản Việt
Nam là chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiên phong của giai
cấp công nhân, có khả năng đoàn kết “tập hợp”, “lôi kéo” các
tầng lớp nhân dân khác đứng lên làm cách mạng, bao giờ Đảng cũng “tận tâm, tận
lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân”, “trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai
cấp, của nhân dân, của dân tộc”, “ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của
dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết
hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
- Xuất phát từ tình hình Việt Nam, Hồ Chí Minh đã
viết “Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng cộng sản Đông Dươngvào đầu
năm 1930”. 2 Điều này thể hiện hai mặt gắn bó với
nhau rất chặt chẽ ở Hồ Chí Minh là phải nắm vững quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin và xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, để vận dụng sáng tạo, bổ sung và
phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn vấn đề giai
cấp và vấn đề dân tộc. Người khẳng định: không phải mọi người yêu nước đều là
cộng sản, nhưng việc tiếp nhận đường lối của Đảng Cộng sản lại là điều kiện cần
thiết để xác định được mục tiêu yêu nước đúng đắn; còn mỗi người cộng sản trước
hết phải là người yêu nước, hơn nữa phải là người yêu nước tiêu biểu, lãnh đạo
công nhân và quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng.
- Thấm nhuần luận điểm của Mác-Ănghen trong “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản giai cấp vô sản phải tự mình trở thành dân
tộc”, Hồ Chí Minh khi thành lập Đảng đã xác định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt
Nam.
- Thực tiễn phong trào cách mạng Việt Nam cũng
như phong trào cách mạng thế giới đã kiểm nghiệm và chứng minh luận điểm của
Người về việc gắn Đảng với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, gắn
giai cấp với dân tộc là hoàn toàn đúng đắn.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam – “Đảng của giai cấp
công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam”.
- Từ luận điểm phải kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước để hình thành Đảng Cộng sản, Hồ
Chí Minh còn đi đến kết luận: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công
nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam. Trong báo cáo Chính trị tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2 – 1951), Người đã khẳng
định: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt
Nam” 1. Năm 1961, luận điểm đó được Người nhắc
lại: “Đảng ta là đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên
tư, thiên vị”. 2
- Khi nói Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời
là Đảng của dân tộc, Người đã hiều rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp
công nhân, đồng thời phê phán những quan điểm sai trái như không thấy rõ vai
trò và sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân, hoặc chỉ thiên về công nông mà
không thấy rõ vai trò của các tầng lớp, giai cấp khác đi với công nông tạo
thành sức mạnh to lón của khối đại đoàn kết toàn dân.
- Theo Hồ Chí Minh, cái quyết định giai cấp công
nhân của Đảng không phải chỉ ở số lượng Đảng viên xuất thân từ công nhân, mà cơ
bản là ở nền tảng tư tưởng của Đảng và chủ nghĩa Mác-Lênin; ở mục tiêu, đường
lối của Đảng thực sự vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì sự nghiệp giái
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; ở vấn đề Đảng nghiêm
túc tuân thủ những của Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa
Mác-Lênin “làm cốt”.
- Trong cuốn Đường Kách mệnh, Hồ Chí Minh đã mở
đầu bằng một câu của Lênin: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh
vận động…chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, Đảng cách mệnh mới làm nổi
trách nhiệm cách mệnh tiền phong”.1 Người cũng chỉ rõ: “Đảng muốn vững
thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải
theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn,
tàu không có bàn chỉ nam”.2
- Người đã tìm thấy lý luận cách mạng tiền phong
ở chủ nghĩa Lênin: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.3
- Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm nòng cốt” theo Hồ
Chí Minh không có nghĩa là giáo điều theo từng câu, từng chữ mà là nắm vững
tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, nắm vững lập trường, quan điểm và phương
pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời thâu thái những tinh hoa của văn hóa
dân tộc và nhân loại.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo
những nguyên tác của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
- V.I.Lênin đã đề ra những nguyên tắc xây dựng
Đảng kiểu mới để phân biệt với những Đảng cơ hội của Quốc tế II. Hồ Chí Minh đã
tiếp thu những nguyên lý xây dựng Đảng của V.I.Lênin, đề ra những nguyên tác
xây dựng Đảng sau đây:
Một là, nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Đây là nguyên tác cơ bản nhất để xây dựng Đảng
cộng sản, không biến Đảng thành một câu lạc bộ, Hồ Chí Minh gọi tập trung dân
chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng.
- Dân chủ và tập trung là hai mặt có quan hệ gắn
bó và thống nhất với nhau trong một nguyên tắc, dân chủ để đi đến tập trung, là
cơ sở của tập trung; tập trung trên cơ sở dân chủ, thep nguyên tắc thiểu số
phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, mọi đảng viên phải chấp hành
vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Từ đó làm cho “Đảng ta tuy nhiều người nhưng
khi tiền đánh thì chỉ như một người”.4
- Về dân chủ, Người viết: “Chế độ ta là chế độ
dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi
người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó cũng là một
quyền lợi và cũng là một nghĩa vụ của một người.
Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy
chân lý, lúc ấy, quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân
lý.” 5
- Người đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực hiện và
phát huy dân chủ nội bộ, vì có dân chủ trong Đảng mới có thể nói đến dân chủ
trong xã hội, mới định hướng cho việc xây dựng một chế độ dân chủ triệu lần dân
chủ hơn chế độ tư bản chủ nghĩa.
Hai là, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
- Theo Hồ Chí Minh, đây là nguyên tắc lãnh đạo
của Đảng. Nhiều người thì nhiều kiến thức, người thấy mặt này, người thấy mặt
kia, do dó hiểu được mọi mặt, mọi vấn đề. Việc gì đã được tập thể bàn bạc kỹ
lưỡng, kế hoạch đã được định rõ thì cần giao cho một người phụ trách, như thế
công việc mới chạy, như thế mới tránh được thói dựa dẫm, người này ỷ vào người
kia, ỷ lại vào tập thể. Không xác định rõ cá nhân phụ trách, thì giống như
“nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”.
- Người kết luận: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ
đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc.
Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ
bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc.
Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải
luôn luôn đi đôi với nhau” 1.
- Về vấn đề tập trung dân chủ, Người giải thích:
“Tập thể lãnh đạo là dân chủ
Cá nhân phụ trách là tập trung
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân
chủ tập trung” 2
Ba là, nguyên tắc tự phê bình và phê bình:
- Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc sinh hoạt của
Đảng, là quy luật phát triển của Đảng. Người nhấn mạnh: “Muốn đoàn kết chặt chẽ
trong Đảng, ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê
bình và phê bình”. 3
- Người xem tự phê bình và phê bình là vũ khí để
rèn luyện đảng viên, nhằm làm cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ hơn và tăng cường
đoàn kết nội bộ hơn.
- Tự phê bình và phê bình là vũ khí để nâng cao
trình độ của Đảng, để Đảng làm tròn sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, làm tròn trách
nhiệm trước giai cấp và dân tộc. Người nói: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm
của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan từa nhận khuyết điểm của mình, vạch
rõ những cái đó… là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” 4.
- Tự phê bình và phê bình không những là một vấn
đề của khoa học cách mạng, mà còn là của nghệ thuật. Người lưu ý cán bộ, đảng
viên và các cấp bộ Đảng từ trên xuống dưới phải “luôn luôn dùng và khéo dùng
cách phê bình và tự phê bình”.5 . Muốn thực hiện tốt nguyên tắc
này, đòi hỏi mỗi người phải trung thực, chân thành với bản thân mình cũng như
với người khác, “phải có tình đồng chí thường yêu lẫn nhau”.
Bốn là, nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác.
- Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ
luật nghiêm minh và tự giác trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng:
“Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức
nghiêm minh của cán bộ, đảng viên.”
- Theo Hồ Chí Minh nghiêm minh là
thuộc về tổ chức Đảng, tự giác là thuộc về mỗi cá nhân cá bộ,
đảng viên đối với Đảng. Hồ Chí Minh nói: “Kỷ luật này lá do lòng tự giác của
đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng”1
- Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành
các chủ trương, nghị quyết của Đảng và tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh
đạo và sinh hoạt Đảng, các nguyên tắc xây dựng Đảng.
Mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, mỗi cấp ủy dù ở
cấp bộ nào cũng phải nghiêm túc kỷ luật của các đoàn thể và pháp luật của Nhà
nước, tuyệt đối không ai được cho phép mình coi thường, thậm chí đứng trên tất
cả. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Mỗi đảng viên cần phải làm kiểu
mẫu phục tùng kỷ luật, chẳng những kỷ luật của Đảng, mà cả kỷ luật của các đoàn
thể nhân dân và của cơ quan chính quyền cách mạng” 2.
Năm là, nguyên tắc đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
- Hồ Chí Minh khẳng định, đoàn kết thống nhất của
Đảng là một nguyên tắc quan trọng của Đảng kiểu mới của Lênin. Xây dựng sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng để làm nòng cốt cho việc xây dựng sự đoàn kết thống
nhất trong nhân dân, xây dựng nên khối đoàn kết vững chắc, đảm bảo cho việc
giành được những thắng lợi ngày càng to lớn hơn.
- Hồ Chí Minh coi giữ gìn đoàn kết, thống nhất
trong Đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng. Trong di chúc, Người viết: “Đoàn kết là
một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung
ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn
con ngươi của mắt mình” 3
- Cơ sở để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng chính là đường lối, quan điểm của Đảng và Điều lệ Đảng. Nếu xa rời cơ sở
này sẽ xuất hiện những nguy cơ phá hoại đoàn kết thống nhất từ bên trong.
- Củng cố và tăng cường sự đoàn kết thống nhất
đối với cán bộ lãnh đạo có ảnh hưởng đến sự đoàn kết thống nhất của nhiều cán
bộ, đảng viên, đến toàn Đảng. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Ngày
nay, sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết
chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”. 1
- Để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng,
Người yêu cầu: phải thực hiện và mở rộng dân chủ nội bộ; phải thường xuyên thực
hiện phê bình và tự phê bình; phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng,
chống chủ nghĩa cá nhân với bao nhiêu thứ tệ nạn từ chủ nghĩa cá nhân mà ra –
tham ô, lãng phí, quan liêu, bè cánh, cơ hội, dối trá, chạy theo chức quyền,
danh lợi.
6. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ
trung thành của nhân dân. Phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu
thịt giữa Đảng và dân.
- Từ khi Đảng ra đời, do có đường lối đúng đắn và
có sự gắn bómáu thịt với nhân dân, Đảng đã được nhân dân thừa nhân là Đảng duy
nhất có vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam và trong suốt tiến trình đi lên của
cách mạng Việt Nam, Đảng ta hoàn toàn xứng đáng với sự tin cậy ấy. Năm 1960,
Người nói: “Với tất cả sự khiêm tốn của một người cộng sản, chúng ta có thể tự
hào rằng, Đảng ta vĩ đại thật”.
- Trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, theo
Hồ Chí Minh, Đảng phải vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân. Hai mặt lãnh đạo và đầy tớ không tách rời nhau, không đối
lập nhau. Người nhấn mạnh: Lãnh đạo có nghĩa là làm đầy tớ.
- Đảng cầm quyền lại càng phải ý thức thật sâu
sắc mình là đầy tớ nhân dân, chứ không phải người chủ của nhân dân, tự cho phép
mình đứng trên dân, trên Nhà nước, trên pháp luật. Đảng lãnh đạo Nhà nước là
nhằm xây dựng một Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân.
- Là đầy tớ trung thành của nhân dân, Đảng không
có quyền lợi gì của riêng mình, ngoài quyền lợi của giai cấp, của dân tộc. Đảng
không ở trên dân, cũng không ở ngoài dân, mà ở trong dân, trong lòng dân. đảng
cũng phải lấy dân làm gốc.
7. Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi
mới.
- Chỉnh đốn và đổi mới là nhằm làm cho Đảng thực
sự trong sạch, vững mạnh cả về ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước
những yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng.
- Hồ Chí Minh nhận định, bên cạnh số đông đảng
viên xứng đáng với danh hiệu của mình, thì vẫn có một số “thấp kém về tinh thần
và đạo đức cách mạng…họ tự cho mình có quyền sống xa hoa hưởng lạc, từ đó mà đi
đến tham ô, trụy lạc, thậm chí sa vào tội lỗi” 1. Hồ Chí Minh đã nêu lên một luận điểm
quan trọng: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có
sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến
và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá
nhân” 2. Vì vậy, phải chỉnh đốn để sửa chữa
những lỗi lầm, sai trái ấy.
- Đối với toàn Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đều
chịu những ảnh hưởng của xã hội, cả cái tốt và cái xấu, cái hay và cái dở. Chỉ
có thể phát huy được cái tốt, cái hay, lọc bỏ được được cái xấu, cái dở bằng
việc rèn luyện thường xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên, thường xuyên chú ý đến
việc chỉnh đốn Đảng.
- Trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm
quyền, Hồ Chí Minh coi việc xây dựng đảng, chỉnh đốn Đảng là công việc thường
xuyên của Đảng. Người nhìn thấy rõ hai mặt của quyền lực: một mặt, quyền lựx có
sức mạnh rất to lớn để cải tạo cái cũ và xây dựng cái mới trong tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, nếu biết sử dụng đúng quyền lực; mặt khác, nó cũng có
sức phá hoại rất ghê gớm vì con người nắm quyền lực có thể thoái hóa, biến chất
rất nhanh chóng, nếu đi vào con đường tham muốn quyền lực, chạy theo quyền lực,
tranh giành quyền lực, và khi đã có quyền lực thì lợi dụng quyền lực, lạm
quyền, lộng quyền, đặc quyền, đặc lợi… Vì vậy, trong điều kiện đảng lãnh đạo
chính quyền, Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc chỉnh đốn và đồi mới Đảng để
hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi và tẩy trừ mọi tệ nạn do thoái hoá biến chất gây
ra.
- Trước lúc đi xa, Người còn để lại những lời tâm
huyết, căn dặn toàn Đảng: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn
lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm
tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân” 3
Những luận điểm trên đây về công tác xây dựng
Đảng của Hồ Chí Minh thực sự là một chân lý, phản ánh đúng thực tiễn và đã được
thực tiễn kiểm nghiệm, khôngphải chỉ từ thực tiễn nước ta, mà còn ở nhiều nơi
trên thế giới, có ý nghĩa rất sâu xa đối với Đảng Cộng sản, đối với mỗi đảng
viên cộng sản. Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII về xây dựng chỉnh đốn
Đảng và Nghị quyết Đại hội IX đang được toàn Đảng triển khai hiện nay là những
việc làm thiết thực để thực hiện những di huấn của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
trong tình hình mới.
1 . Sđd, t.2, tr.267-268
2 . Sđd, t.10, tr.8
1 . Sđd, t.6, tr.175
2 . Sđd, t.10, tr.467
1 . Sđd, t.2, tr.259
2, 3 Sđd,
t.2, tr.268
4 Sđd, t.5, tr.553
5 Sđd, t.8, tr.216
1. Sđd, t.5, tr.505
2. Sđd, t.7, tr.492
3 Sđd, t.5, tr.553
4. Sđd, t.5, tr.261
5. Sđd, tr.265
1 Sđd, t.5, tr.250
2 Sđd, t.6, tr.167
3 Sđd, t.12, tr.510
1 Sđd, t.7, tr.492
1 Sđd, t.11, tr.373, 374
2 Sđd, t.12, tr.557, 558
3 Sđd, tr.503.
Theo: sites.google.com